Thứ Năm, 4 tháng 2, 2010
Ve nha.
Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2010
Phố Phái ( suu tam ).
Bùi Xuân Phái
| Bùi Xuân Phái là một trong những hoạ sĩ lớn của Việt Nam. Ông người làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, tỉnh Hà Đông. Sinh ra tại Hà Nội và trưởng thành từ trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1941 - 1946), ông được mọi người biết đến nhiều nhất với các tranh sơn dầu vừa và nhỏ về đề tài phố cổ Hà Nội. Bên cạnh các tác phẩm về Hà Nội, ông còn vẽ tranh về nghệ thuật Chèo, chân dung, tự hoạ, tĩnh vật, phong cảnh và con người trong cuộc sống đời thường. Ông còn sáng tác nhiều tranh khoả thân và tranh trừu tượng. Ông cũng đã từng tham gia vẽ tranh minh hoạ cho nhiều sách và tạp chí. Nhiều người đã so sánh ông với các hoạ sỹ theo trường phái hội hoạ Paris như Derain, Utrillo, Marquet, hay Soutine. Phong cách của ông đã để lại ảnh hưởng trong nhiều tác phẩm của các hoạ sỹ đương đại. Bùi Xuân Phái vào học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương do thực dân Pháp thành lập năm 1925. Trong suốt năm đầu tiên của khoá học, chỉ kỹ thuật vẽ và điêu khắc đuợc giảng dạy. Trong các năm tiếp theo, các kỹ thuật vẽ truyền thống như vẽ tranh sơn dầu và tranh lụa mới được thêm vào trong chương trình. Đuợc giáo dục trong những năm cuối của chế độ thực dân Pháp, ông đã thể hiện Hà Nội trên tranh với những nét pha trộn của văn hoá Á Đông và những ảnh hưởng của chế độ thực dân. Tranh của ông có nhiều đường nét đơn giản, nhưng đằng sau những đường nét ấy là nhiều tâm tư sâu lắng từ tâm hồn ông. Khi ông tốt nghiệp, nền hội hoạ thế giới đang ở thời kỳ hậu chiến với nhiều đặc trưng so với các thời kỳ khác. Châu Âu trở thành cái nôi của chủ nghĩa trừu tượng trữ tình. Chủ nghĩa biểu hiện phát triển mạnh ở Mỹ. Tài năng của các tên tuổi lớn như Picasso, Mastisse, Leger cũng đã đuợc công nhận. Tất cả những thay đổi ấy đã ảnh hưởng tới ông, được cảm nhận qua con tim của người hoạ sĩ và thể hiện ra trên những tác phẩm của mình. Ông luôn gắng đi tìm không gian riêng cho mình trong những khuôn khổ, ràng buộc của xã hội. Phong cách của ông, như mạch nước ngầm, lan xa và rộng. Chủ nghĩa biểu hiện, phong cách trữ tình pha trộn với nét hoài cổ đã quyến rũ nhiều người yêu hội hoạ trong và ngoài nước đến với tranh ông. Ít hoạ sỹ Việt Nam nào dành được nhiều ưu ái từ người xem đến vậy. Sự thể hiện bề mặt của tranh ông được so sánh với Marquet và chiều sâu trong các tranh về phố Hà Nội làm người ta nhớ đến Mondrian và Klee. Tuy vậy, tâm hồn và phong cách của ông, như được thấy trong các bức tự họa, lại có dáng dấp của Van Gogh. Nhiều tranh của ông vẽ một người đàn ông với đôi mắt buồn và hoảng hốt, như dấu vết của một quá khứ đằng đẵng trong buồn khổ. Cũng như Van Gogh, ông mất đi truớc khi tài năng của mình đuợc công nhận. Ông đã sống một cuộc đời nghèo khổ. Tài năng của ông không được phát hiện bởi xã hội đương thời. Và chỉ sau khi ông mất, các tác phẩm của ông mới được biết đến và đã gây tiếng vang lớn. Thế giới quan của ông bao trùm bởi những năm tháng chiến tranh chống thực dân Pháp và Mỹ. Và cũng chính chiến tranh và hệ tư tưởng trong thời chiến đã để lại những hạn chế trong phong cách của ông. Bên cạnh đó là sự thiếu thốn về vật chất. Thiếu vật liệu vẽ, ông phải tận dụng mọi vật liệu như các thư cũ, báo hay bao thuốc lá để vẽ. Đêm ngày 23 tháng 6 năm 1988, ông đã vẽ một bức tự hoạ nhỏ và ghi đề : "Bây giờ chỉ cần nhất là sức khoẻ và không có bệnh gì". Bảy tiếng sau, ông đã qua đời bởi căn bệnh ung thư phổi. Ông mất đi mà không được tận hưởng những thành công của mình. Thế giới của ông chỉ thu hẹp ở Hà Nội, nơi ông đã sống cả cuộc đời mình, nơi có những ngôi nhà kiến trúc kiểu thực dân với vôi vàng và cửa chớp xanh, xích lô, và quán cà phê Mai - nơi ông thường bàn luận về nghệ thuật và vẽ các phác hoạ trong khi nhấm nháp cà phê đặc. Hoạ sĩ Việt Hải kể : vào những năm 50, trong một buổi họp phê và tự phê,Bùi Xuân Phái đã nói : "Tôi nghĩ là tôi có tài". Câu nói đó đã gây ấn tượng cho Việt Hải. Về sau Việt Hải có nhắc lại câu đó và hỏi : "Nếu bây giờ phải tự nhận xét về mình ông sẽ nói thế nào ?" Bùi Xuân Phái trả lời : "Tôi ngờ là tôi có tài". Cũng như các họa sĩ đích thực khác, ông luôn cảm thấy rõ tính chất "nghiệp" hơn là tính chất "nghề" của nghệ thuật. Cuộc sống gặp nhiều khó khăn, ông phải làm nhiều việc khác ngoài vẽ để sinh nhai như dạy học, minh hoạ báo, vẽ thiết kế cho các đoàn kịch... song bất cứ ở đâu, ông cũng ưu tiên cho hội họa. Với những quan điểm thực tế hơn là một ý tưởng viển vông, ông mong không nên để Nghệ sĩ nghèo khổ quá lâu, mong có sơn dầu tốt, tấm toan lành để vẽ và có xưởng vẽ bề bộn. Khi những thứ tưởng chừng bình thường đó cũng không dễ có thì ông tự nhủ và nhắc các hoạ sĩ tối thiểu cần có một cây bút chì, một tờ giấy bất kỳ và luôn vẽ bằng đầu. Trong sáng tạo nghệ thuật ông luôn dành thời gian cho sự quan sát tự nhiên, ghi chép cẩn thận và đầy đủ, nắm bắt thực tế rồi vượt qua nó, khái quát và trừu tượng hóa nó, để nâng một hiình ảnh thị giác lên đến mức ý tuởng. Nghệ thuật là gì ? là điều ông luôn trăn trở. Hàng trăm điều ông viết dường như không dòng nào không liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến nghệ thuật. Bằng cách này hay cách khác, ông phát hiện ra những giá trị giả của nghệ thuật, những hội hoạ "moderne" xu thời, sự quá tay của vài hoạ sĩ tỏ ra lão luyện, dùng nhiều xảo thuật trong nghệ thuật. Ông liên tục quan sát tự nghiên, so sánh nó với cách thể hiện, thường xuyên xem tranh tìm chỗ thái quá bất cập của đồng nghiệp để tự rút kinh nghiệm cho mình. |
Truyền thống văn hoá ẩm thực ( theo Nguyễn Du Tử - Gia đình - Xã hội)
KHÉO TAY NGHỀ, ĐẤT LỀ KẺ CHỢ ( suu tam ).
Người Hà Nội đang tìm về điểm xuất phát của mình ở chính cái tên "Hà Nội ba mươi sáu phố phường". Buôn có bạn, bán có phường. Ba mươi sáu phố phường xưa chính là nơi tụ hội của người Kẻ Chợ có cùng một nghề nghiệp, một năng khiếu làm ăn. Vào thế kỷ 17 - 18, các phường nghề phát triển khá nhanh, nhất là các nghề thủ công mỹ nghệ. Triều đình Lê - Trịnh muốn tu bổ hoàng thành đã tuyển mộ những người thợ tài hoa khắp đất nước về Thăng Long, họ ở lại sinh sống và hành nghề trên các phường phố: thợ kim hoàn phố Hàng Bạc, thợ Khảm phố Hàng Khay, thợ thêu phố Hàng Trống... Cùng với những phường thợ là sự ra đời của các sản phẩm, có những phố bán riêng từng thứ: Hàng Ðào bán tơ lụa. Bát Sứ bán đồ sành sứ... làm cho Hà Nội sáng rực trăm màu: phố Hàng Ðồng lấp lánh ánh vàng, phố Hàng Tranh màu sắc vui tươi sặc sỡ...
Bàn tay vàng của người Kẻ Chợ được khẳng định bằng câu ngạn ngữ:
Ngát thơm hoa sói, hoa nhài
Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ
Một số nghề có tên tuổi nổi tiếng tồn tại đến ngày nay. Nghề gốm Bát Tràng có từ thời Lý. Nghề làm giấy đỏ vùng Bưởi xưa là sản phẩm riêng của đất kinh kỳ cung cấp giấy cho cả nước, nay vẫn là đặc sản có tính nghệ thuật của Hà Nội dùng để in tranh tết, in truyện Kiều. Hàng dệt tơ tằm vùng Bưởi (Trích Sài, Bái Ân, Yên Thái, Nghĩa Ðô) nổi tiếng ngay từ buổi đầu xây dựng Thăng Long.
Thế kỷ 17 định hình những trung tâm dệt lớn: Nghi Tàm, Thuỵ Chương, Làng Bùng, Vạn Phúc, La Khê, La Cả, Ðại Mỗ...
góp phần làm nên sự phồn vinh của Kẻ Chợ và bán hàng dệt cho các lái buôn phương Tây. Lê Quý Ðôn khẳng định đất nước ta thuộc xứ nóng, nuôi tằm nhiều hơn xứ khác, một năm 8 lứa, tổ tiên ta tìm ra 8 loại tằm, mỗi loại thích nghi với khí hậu một số tháng nhất định. Vùng Tam Giang có nhiều bãi trồng dâu rất tốt, dân lại có tài dệt lụa, chồi, lĩnh... Nhân dân Kẻ Chợ ca tụng sự phong lưu, thành thạo của nghề tầm tang:
Làm ra đủ các thứ hàng
Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường
Lượt, là, lĩnh, lụa, khuyến, lương
Quế, vân, gấm, vóc, băng, sa, kỳ, cầu
Nghề thêu phát triển từ đời Lý đến nay còn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Nghề kim hoàn, đúc đồng, chạm khảm, đan lát, mây tre... ngày nay đang có nhiều mặt hàng được bạn bè thế giới ưa chuộng.
Những nghề được truyền từ nhiều đời, được luyện từ tấm bé ấy đã tạo ra một nền kinh tế phồn vinh làm nên cuộc sống no đủ của người Hà Nội, hình thành nếp sống người Hà Nội thanh lịch trong cách ăn chơi, giao tiếp. Các món ăn Kẻ Chợ cũng trở thành những nghề truyền thống với những cái tên chẳng phai mờ: bún sen Tứ Kỳ, bún Phú Ðô, bánh cuốn Thanh Trì, gạo dự Mễ Trì, giò chả Ước Lễ, cốm Vòng, bánh cốm Hàng Than...
Hà Nội Băm Sáu Phố Phường - THẠCH LAM (trích)
Hàng Mứt Hàng Đường Hàng Muối Trắng Tinh.
Hà Nội đã thay đổi nhiều lắm. Những phố cũ, hẹp và khuất khúc, với những nhà thò ra thụt vào, những mái tường đi xuống từng bậc như cầu thang, những cửa sổ gác nhỏ bé và kín đáo, đã nhường chổ cho những phố gạch thẳng và rộng rãi, với từng dãy nhà giống nhau đứng xếp hàng. Thẳng và đứng hàng, đó là biểu hiện của văn minh. Khi ông cầm lái chiếc ô tô thì ông lấy làm dễ chịu vì đường rộng, vì phố thẳng lắm. Nhưng đối với người tản bộ đi chơi, lòng thư thả và mải tìm sự đẹp, thì phố xá mới không có thú vị gì. Không có những cái khuất khúc dành cho ta nhiều cái bất ngờ, không có một ngọn cây hoa nhô sau bức tường thấp, khiến chúng ta đoán được cả một thửa vườn nhỏ bên trong, ở đấy biết đâu lại không thướt tha một vài thiếu nữ khuê các như xưa.
Chỉ còn một vài cái ngõ con ... ngõ Phất Lộc, ngõ Trung Yên ... mấy ngọn cỏ trên mảnh tường cổng ô Quan Chưởng, là gợi dấu vết của Hà Nội cũ. Ngày ấy, đường hẹp, chắc hàng xóm láng giềng ăn ở với nhau thân mật hơn. Người cùng hàng phố tự coi như có một liên lạc cùng nhau. Bên này một cửa hàng tạp hoá có đầy đủ quả sơn đen, có chồng giấy bản và ống bút nho, có cô hàng thuỳ mị mà hàng phố vẫn khen là gái đảm đang. Bên kia, nhà một ông cụ Tú, có tiếng trẻ học vang, có cậu học trò xinh trai đứng hầu chè thầy bên tràng kỷ.
Những nhà cũ của ta có một lối kiến trúc riêng. Ở các phố Hà Nội hiện giờ, thỉnh thỏang cũng còn được một vài nhà. Giữa nhà, mảnh sân vuông lộ thiên, có bể non bộ và cá vàng, có dãy chậu lan, có bể đựng nước, và trên tường có câu đối chữ nho. Đôi khi đi qua, một cánh cửa hé mở, chúng ta được thoáng nhìn vào; bóng một thiếu nữ nhẹ qua sân, hình dáng một ông cụ giàcúi mình trên cây cảnh. Tất cả cuộc đời của những kẻ bên trong, cuộc đời xưa, những ý nghĩ cũ, những hy vọng và mong ước khác bây giờ.
Không còn gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi năm trở về trước. Thăng Long của vua Lê, của chúa Trịnh không còn dấu vết nào: đâu còn những cung điện ngày xưa, những phụ đế của các bậc công hầu khanh tướng? Thỉnh thỏang một vài tên gọi còn nhắc lại, một vài đống đất còn ghi dấu, thế thôi. Chúng ta không biết được mấy về dĩ vãng, về cảnh phố xá kinh kỳ hồi cụ Lãn Ông, một túi thơ, một bồ thuốc, đi từ Bát Tràng đến Hồ Tây để chữa cho hoàng tử.
Trong một bài báo, tôi đã nói (Hà Nội XVII ẻ sìecle) rằng cái "nghệ thuật biển hàng" ở Hà Nội đã mất. Ngày xưa, cái biển hàng còn là một cái gì hơn không chỉ là một cái biển hàng mà thôi. Đó là một bộ gì liền với cơ nghiệp và số vận của người buôn, cái biển hiệu thực hiện của những cố công nhẫn nại và những đức tính ngay thật của chủ hàng. Đề biển phải chọn ngày tốt, phải xin chữ của những người viết giỏi có tiếng, và người ta thận trọng giữ gìn như một thứ của gia bảo ở những cái biển cũ đã tróc sơn, mà gió mưa bao nhiêu năm đã làm lạt cả vàng son, những nét chữ mạnh mẽ và rắn rỏi vẫn còn như nguyên mới. Tôi không khỏi bao giờ đi qua không dừng bước lại ngắm ngía ba chữ đại. "Vạn Thảo Đường" trên cái biển cũ kỹ của hiệu thuốc ấy ở đầu phố Hàng Đường.
Ba chữ "Đông Hưng Viên" cũng sắc nét và còn mới hơn. Ngày trước còn mấy chữ "Cộng Hòa Đường" viết bằng son đỏ tươi, lối nửa chân nửa lệ, chữ bay bướm, trông đến thích cả mắt.
Nhưng bây giờ người ta đã xóa đi để thay vào bắng lối chữ "vuông tân thời" trong các quảng cáo ở báo Tàu hay bằng những chữ điện tím hoa cà, xanh lá mạ đêm đêm sáng ngời một góc trời. Tất cả cái gì cũng thay mới người ta không những thấy có biển hàng, người ta thấy cả bề mặt cái cửa hàng nữa. Và sự thay đổi bề ngoài ấy đem đến cho phố xá Hà Nội một vẻ mới riêng, hơi lạ lùng và đột ngột.
Trong đêm khuya, chúng ta thử dạo chơi các phố, lúc đó không bị những ánh sáng và thức hàng làm lóe mắt. Lúc đó những cửa hàng mới mẻ đã đóng cả, và cái phố với căn nhà đều phô bày vẻ thật. Các nhà chỉ thay đổi có phía dưới sự thay đổi ít khi lên đến tầng trên. Và bây giờ, nếu người ta có phép gì cắt bỏ các tầng dưới và đặt các tầng trên xuống đất, chúng ta sẽ có một hàng phố cũ kỹ với những hàng bát quái, mảnh gương và dơi bay một phố từa tựa như phố của kinh kỳ xưa, chắc thế.
Có một bạn nào trông coi về vẻ đẹp của thành phố Hà Nội không? Hình như có thì phải, tuy rằng bạn đó không thấy làm cho người ta nói đến mình. Nhưng cái đó không hề gì, miễn là bạn đó cứ làm việc là đủ.
Ngày trước, ở trước cửa phủ toàn quyền, còn có một nhóm tường mà người ta đã phá đi rồi, cách đây đâu mười năm gì đó. Nhóm tường đó trông xa giống như mâm xôi; ở đỉnh có những hình thù gì, tôi không nhớ, nhưng ở phía dưới, có tượng hai người đàn bà nằm choài ra như bơi, tóc buông xõa và lẩn mình vào thành bể. Hai người đàn bà đó người ta bảo là hình dung hai con sông Nhị Hà và Mêkông.
Chúng ta tưởng tượng phong cảnh hồ Hoàn Kiếm với cái mâm xôi bằng đá lù lù ấy. May thay không biết có ai phản đối, người ta bỏ cái dự định ấy, và đem nhóm tường dựng ở trước cửa phủ Toàn quyền, để rồi sau đó ít lâu phá đi.
Sự phản đối ít lợi ấy có lẽ là công việc của ủy ban coi về vẻ đẹp của thành phố hẳn?
Sau đó ít lâu, một dạo, ngay bên cổng của đền Ngọc Sơn, chúng ta được trông thấy đứng sừng sững và thẳng tấp một cái cột dây điện chằng chịt và cả đèn điện với những cái "bình tích" bằng sứ trắng, khiến cho cái cột sắt sơn hắc ín đó như một thứ cây già mọi rợ vụng về. Cái cây đó làm cho vẻ đẹp của cổng đền Ngọc Sơn giảm mất đến chín phần mười.
Nhưng lại may thay, cũng cách sau ít lâu, cái cột đó không còn nữa. Công việc của ủy ban kia chắc thôi.
Sau đó ít lâu nữa, cảnh đền Ngọc Sơn lại chịu phải một sự thêm thắt xấu xa khác.
Có lẽ theo lời yêu cầu của những ai trông nom cái đền đó, người ta đã cho bắc suốt từ ngoài cổng, qua đầu, vào đến trong đền, những vòng sắt nền, có những đường uốn lượn ngoằn ngoèo, cũng sơn hắc ín, và để mắc đèn.
Mắc đèn cho sáng, cho tiện những người đi lễ đền. Một ý tốt, rất tốt. Nhưng sao lại phải trả bằng một cách bôi nhọ vẻ đẹp của đền thế? Muốn sáng cổng và sáng cầu thì thiếu gì cách: mắc đèn vào những chỗ lõm khuất khúc của cổng và của cầu: đèn để như thế vừa được kín đáo, vừa không làm giảm vẻ đẹp, không kể cái lối ánh sáng đập lại ấy dịu dàng và làm tôn cảnh đền hơn lên.
Đằng này, mắc những võng sắt với cánh hoa hoét rẻ tiền kia vào cái cổng đẹp đẽ có lối kiến trúc riêng, có vẻ cổ sơ ấy, thực là một cách đập phá mỹ thuật tai hại không gì bằng.
Cho cả đến ba chữ "Ngọc Sơn Tự" bằng sắt dán trên một tấm lưới cũng sắt, và có hoa lá cũng sắt nốt, cả cái biển ấy cũng chướng mắt không kém.
Những thanh sắt ấy ở đó cũng khá lâu rồi thì phải, mà chưa thấy cái ủy ban nào đó nếu ủy ban ấy có làm việc gì cả. Việc thì rất giản dị: nghĩa là bỏ những cái đó là xong.
Dạo này, người ta đã xây nhiều bóp cảnh sát phụ ở lác đác khắp Hà Nội, Yên Phụ, Cửa Nam, Bờ Hồ, Quan Thánh ...
Kiểu bóp như là một cái hòm vuông bốn góc thẳng cạnh, có cửa vào (tất nhiên) và cửa sổ. Việc xây các bóp ấy chắc là ít lợi nhiều cho việc trị an của thành phố. Chúng tôi xin cũng nhận thế. Và chỗ đặt bóp chắc cũng đã lựa chọn rất tiện lợi nữa.
Những bóp khác, chả nói làm gì. Duy chỉ có cái bóp ở Quan Thánh, là làm giảm mất vẻ đẹp của ngôi đền đẹp đẽ ấy.
Tuy rằng người ta đã cẩn thận cho cái bóp ấy đại để vẫn hình vuông một hình dáng muốn giống chùa chiền bằng cái mái cong cong, bằng vài cái trang điểm theo lối cũ. Nhưng mà cái chùa giả ấy trong đó thấy cảnh sát thay nhà sư không đánh lừa được ai hết, nhất là người yêu mỹ thuật, yêu Hà Nội, yêu cái vẻ cổ kính của đền chùa.
Chỉ quá một ít nữa, làm xa ra một tý nữa ở phía đường bên kia, hay ở ngay vườn hoa đầu đường Quan Thánh, vườn hoa Eckert nếu tôi không nhầm, thì có phải hay biết bao không. Gia chi dĩ, những đường vạch thẳng ngay ngắn của vườn hoa ấy lại hòa hợp với cái hình thù vuông vắn của nhà bóp lắm.